Hoàngquang’s Blog

07/06/2009

Thử nhìn lại vị trí của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX

Filed under: Lịch sử — hoangquang @ 5:01 sáng
Tags:

Vĩnh Sính

Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa,
Đêm sao đêm mãi thế ru mà?

(Tú Xương, “Đêm dài”, đầu thế kỷ XX)
PBC 1Khoảng một trăm năm trước, khi tại các quầy rượu, quán cà-phê ở những thành phố tiêu biểu cho văn hóa Tây phương vào cuối thế kỷ XIX như Paris, Vienne, Berlin, khách văn nhân nghệ sĩ gặp nhau đàm luận về những tư trào trong văn học nghệ thuật Tây phương lúc bấy giờ như “nghệ thuật vị nghệ thuật” (l’art pour l’art), chủ nghĩa duy mỹ (aestheticism) hay trường phái tự chiêm ngưỡng (narcissism), thì ở xứ Đông Dương xa xôi bên kia nửa vòng trái đất, nước ta hãy còn im lìm trong giấc nồng của đêm dài mất nước và ngay cả cái tên Việt Nam vẫn chưa được mấy ai nghe biết đến. Ngọn lửa Cần Vương kháng chiến cuối cùng ở Vũ Quang do Phan Đình Phùng lãnh đạo cũng đã bị dẹp tắt (1896). Dưới chính sách của toàn quyền Paul Doumer là triệt để khai thác nhân lực cùng tài nguyên của xứ thuộc địa này nhằm phục vụ tối đa cho quyền lợi của mẫu quốc, từ 1902 – năm ở Hà Nội người Pháp rầm rộ làm lễ khánh thành cầu Doumer (tức cầu Long Biên sau này) – Đông Dương bắt đầu mang lại những lợi lộc kinh tế và tài chánh cho nước Pháp trong khi tuyệt đại đa số người Việt phải chịu cảnh tôi đò ngay chính trên quê hương của họ. Về sau, khi viết hồi ký Doumer đã kiêu hãnh ghi lại như sau: “Khi Pháp mới đến Đông Dương, nước An Nam đã chín muồi trong tình cảnh nô lệ”!

Trong hoàn cảnh đất nước bi đát như thế, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai sĩ phu, hai bậc đại hào kiệt đi hàng đầu trong vận động giành lại độc lập dân tộc vào giai đoạn giao thời 25 năm đầu thế kỷ XX. Tuy cùng chung hoài bão cứu nước, lập trường của hai nhà chí sĩ họ Phan trên một số vấn đề căn bản của đất nước lại rất khác nhau, thậm chí có khi tương phản. Trong nhiều năm gần đây, sau nhiều lần đọc lại các trước tác của hai nhận vật kiệt hiệt này, chúng tôi nhận thấy có nhiều kinh nghiệm của người xưa – thành công cũng như thất bại – vẫn còn ý nghĩa cho đến ngày nay.

Trong khuôn khổ bài viết này, ta hãy thử nhìn lại vị trí và đánh giá vai trò của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX.

“Gọi hồn nước”

Vào những năm đầu thế kỷ XX, làn sóng duy tân từ Nhật Bản dội sang nước ta qua những “tân thư” (sách mới) và “tân văn” (báo mới” của Lương Khải Siêu cùng các nhà cải lương Trung Quốc khác. Những trang sách “tân thư” “tân văn” mang đến cho các sĩ phu yêu nước không khí rạo rực của cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản và khí thế sôi sục của Mậu Tuất Chính biến (1898) ở Trung Quốc. Sĩ phu Việt Nam lần đầu tiên nghe đến các học thuyết dân chủ, dân quyền, chủ nghĩa lập hiến và làm quen với các tên nghe lạ tai như Mạnh-đức-tư-cưu (Montesquieu), Lư-thoa (Rousseau), Phúc-lộc-đặc-nhĩ (Voltaire), v.v… Từ chỗ “ếch ngồi đáy giếng thấy bao nhiêu trời”, họ bắt đầu có tầm nhìn “doanh hoàn” (toàn cầu) – dĩ nhiên điều này không có nghĩa là ai ai nay cũng có thể nhìn một cách khách quan về đất nước hay về thế giới bên ngoài. Quan điểm cạnh tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua (survival of the fittest) qua thuyết tiến hóa xã hội (social Darwinism) của Dật-nhĩ-văn (Darwin) mà ngày đó hãy còn gọi là thuyết “vật cạnh” (vạn vật cạnh tranh để sinh tồn), “thiên diễn luận” (sự tiến hóa tự nhiên của sự vật) hay thuyết “tự do đào thải”, khiến họ ý thức sâu sắc hơn về hiểm họa mất nước.

Phan Bội Châu về sau đã ghi lại trong tự truyện: “Tôi vì xem những pho sách ấy mới hiểu qua được tình hình cạnh tranh ở trong hoàn hải, thảm trạng đất nước diệt chủng lại càng kích thích trong đầu sâu sắc hơn”[1]. Nỗi lo diệt chủng cũng được nhắc nhở trong bài “Đề tỉnh quốc dân ca” (không rõ tên tác giả) lưu truyền rộng rãi trong nước vào năm 1906:

Nỗi diệt chủng bề thương bề sợ
Nòi giống ta biết có còn không?

Trong hàng ngũ các sĩ phu yêu nước vào đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu có lẽ là người đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thức tỉnh hồn nước. Thơ văn Phan Bội Châu có ảnh hưởng sâu rộng đối với người đọc không chỉ vì những dòng thơ Phan mang nhạc điệu trầm hùng thiết tha, khi rạo rực sôi nổi, mà cũng vì những gì Phan nói lên thường khơi dậy nỗi nhục mất nước và kích động những cảm xúc sâu xa của tình tự dân tộc. Những câu sau đây ngày ngay đọc đến ta vẫn thấy xao xuyến trong lòng, huống hồ là đối với độc giả sống trong tình trạng “mất nước” vào đầu thế kỷ XX:

Lời huyết lệ gửi về trong nước,
Kể tháng ngày chửa được bao lâu
Nhác trông phong cảnh Thần châu,
Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ…
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,
Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau…

(“Hải hoại huyết thư” (1906), Lê Đại dịch)

Hoặc giả:

Than ôi! Lục tỉnh Nam Kỳ
Nghìn năm cơ nghiệp còn gì hay không
Mịt mù một giải non sông
Hỏi ai, ai có đau lòng chăng ai…

(“Ai cáo Nam kỳ phụ lão” (1907), Phan Bội Châu tự dịch)

Trong bài “Sinh văn cụ Phan Sào Nam” (1940), Huỳnh Thúc Kháng đã diễn tả một cách sống động về sức rung cảm lòng người của ngòi bút Phan Bội Châu:

Miệng giọng cuốc vạch trời kêu giật một,
giữa từng không mù cuốn mây tan,
Tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba, đầy mặt
giấy mưa tuôn sấm nổ.
Núi cao reo bốn phía dậy vang,
Buồng kín tỉnh ngàn năm giấc ngủ [2]

Do ảnh hưởng văn thơ của Phan Bội Châu, mà “hàng nghìn thanh niên đã cắt cụt tóc bím, vất hết sách vở văn chương cử tử cùng cái mộng công danh nhục nhã gắn trên đó, lìa bỏ làng mạc, nhà cửa vợ con, rồi băng ngàn lội suối, bất chấp mọi nỗi đói thiếu, nguy hiểm, khổ sở, để qua Xiêm, qua Tàu, qua Nhật mà học hỏi và trù tính việc đánh Tây” [3]. Ngoài ra, cũng cần để ý là ảnh hưởng của Phan Bội Châu không chỉ giới hạn trong những thế hệ trưởng thành trong nửa đầu thế kỷ XX, mà ngay cả trong thời gian “đất nước phân kỳ”, bất luận Nam Bắc, văn thơ Phan đã khơi dậy lòng yêu nước của không biết bao nhiêu thanh niên.

Ý thức “Quốc gia Quốc dân”

So với người cùng thời, Phan Bội Châu sớm ý thức về vận mệnh đất nước và cũng là một trong những sĩ phu đầu tiên đối đầu với các vấn đề liên hệ đến Việt Nam như một “quốc gia quốc dân” (nation-state).

Vì từ “quốc gia quốc dân” (hay “nhà nước quốc dân”) vẫn chưa được nhắc đến ngay trong các cuốn từ điển tiếng Việt, Anh Việt hay Pháp Việt, v.v… xuất bản gần đây (những năm cuối cùng của thế kỷ XX!), ta thử tạm mượn định nghĩa của từ này trong một cuốn từ điển tiếng Nhật Bản – một ngôn ngữ có nhiều từ vựng hiện đại “xuất cảng” sang chữ Hán và tiếng Việt vào buổi đầu thế kỷ XX.

Trích:
Kokumin kokka (“Quốc-gia quốc-dân”, hay “nhà nước quốc dân”): một quốc gia thống nhất được hình thành dựa trên cơ sở của ý thức về sự đồng nhất của quốc dân, hay dân tộc (Nihongo daijiten [Nhật-Bản-ngữ đại-từ-điển], Tokyo: Kôdansha, 1989, trang 691).

Ngay từ hồi chưa xuất dương, Phan đã từng đi chu du nhiều nơi trong nước – miền Nam xứ Nghệ (quê Phan) từ Huế vào Nam Ngãi, Bình Phú, rồi Gia Định, cho đến tận vùng Thất Sơn ở Châu Đốc; miền Bắc từ Nam Định, Hà Nội, lên tận rừng Yên Thế của Đề Thám – nhằm tìm cách kết giao đặng mưu đồ việc nước với những người có nghĩa khí, từ sĩ phu tới các “hảo hán” trong giới “lục lâm giang hồ” sống ngoài vòng pháp luật. Trong thời kỳ Đông Du (1905-1909), hàng ngày tiếp xuvs và lo việc ăn học cho các thành viên từ Nam chí Bắc, Phan ý thức sâu sắc về tình trạng thiếu đồng thuận giữa người Việt với nhau do một lý do khá đơn giản: đây là lần đầu tiên các thanh niên này có dịp tiếp xúc, đối thoại và sinh hoạt với nhau. Trong Việt nam quốc sử khảo (1908), Phan nêu lên 5 điều khiếm khuyết trong dân trí nước ta: hay nghi kỵ lẫn nhau, coi trọng những điều xa hoa vô ích (như trong việc hôn nhân, cúng bái, v.v …), biết lợi mình chứ không biết hợp quần, tiếc của riêng mà không nghĩ đến lợi chung, biết thân mình mà không nghĩ đến việc nước [4]. Ý thức “quốc gia quốc dân” trong tư tưởng cũng như hành động của Phan phải nói là một sự đề kháng đối với chính sách “chia để trị” của chính quyền đô hộ, khác hẳng với đầu óc địa phương hẹp hòi thường thấy ngay ở các nhân vật tai to mặt lớn trong nước lúc bấy giờ. Bình tình mà nói, bệnh chia rẽ, óc địa phương không chỉ do chính sách cai trị của người nước ngoài, bởi lẽ ngay khi người Việt nắm lấy vận mệnh đất nước, vẫn không thấy những biện pháp tích cực nhằm khắc phục tư tưởng cục bộ “ăn cây nào, rào cây ấy” hay tình trạng “phép vua thua lệ làng”. Đóng góp của Phan trên mặt này ngay từ hồi đầu thế kỷ đúng là một điểm son đáng trân trọng, cần được ghi nhớ.

Cũng cần để ý rằng “vong quốc” (mất nước), “đồng bệnh” (cùng bệnh) và “quang phục” (khôi phục vinh quang đã mất) là những từ thông dụng trong thuật ngữ chính trị ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam – ba nước “cùng mang bện mất nước” – vào đầu thế kỷ XX. “Vong quốc” ở đây có nghĩa là mất độc lập, mất chủ quyền. Phan Bội Châu giải thích: “Gọi là một nước thì phải có nhân dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái ấy đều không đủ tư cách làm một nước” [5]. Bởi vậy không phải ngẫu nhiên mã những nỗ lực khôi phục độc lập ở ba nước Đông Á nói trên thường lấy tên “quang phục”: vận động lật đổ triều đình Mãn Thanh ở Trung Quốc do Thái Nguyên Bồi khởi xướng năm 1904 lấy tên là Quang phục Hội (về sau gia nhập Đồng minh Hội của Tôn Dật Tiên); ngày Hàn Quốc lấy lại độc lập, thoát khỏi ách cai trị của người Nhật gọi là ngày Kwangbok (tức Quang Phục, 15/8/1945); và cái tên Việt Nam Quang phục Hội do Phan Bội Châu cùng các đồng chí thành lập ở Quảng Đông (1912) cũng không ngoài nghĩa đó.

Việt Nam – Từ Quân chủ tới Dân chủ

Ai là người đầu tiên phổ biến cái tên Việt Nam vào đầu thế kỷ XX? Trả lời câu hỏi thoạt nhìn có vẻ vô-thưởng-vô-phạt này sẽ giúp ta nhận thức rõ hơn về vai trò của Phan Bội Châu và Quang phục Hội.

Quốc hiệu “Việt Nam” nguyên đã có từ đầu thời vua Gia Long, nhưng trên thực tế không mấy khi được sử dụng. Sử sách chép là vua Gia Long lúc đầu khi mới lên ngôi (1802) muốn đặc quốc hiệu là Nam Việt, nhưng vua Gia Khánh nhà Thanh không chấp thuận, lý do là quốc hiệu này khơi lại chuyện Triệu Đà và chính quyền cát cứ ở nước Nam Việt đời Hán ngày trước. Thanh triều chỉ chấp thuận sai sứ sang phong vương sau đó hai năm (1804) khi quốc hiệu Nam Việt đã được đổi ngược lại thành Việt Nam [6]. Bước sang thế kỷ XX, trong khi người nước ngoài đều dùng tên “An Nam” để chỉ nước ta, theo thiển ý của chúng tôi, Phan Bội Châu là người đầu tiên đã phổ biến cái tên Việt Nam ngay từ khi mới sang Nhật Bản. Bằng cớ là Phan đã dùng tên Việt Nam trong các trước tác viết trong thời kỳ Đông Du: Việt Nam vong quốc sử (1905), Tân Việt Nam (1906), Việt Nam thảm trạng (1907?), Việt Nam quốc sử khảo (1908). Ngoài ra, sau khi giải tán Duy Tân Hội, như đã nói ở trên, Phan cùng đồng chí cũng đã dùng tên Việt Nam (thay vì An Nam hay các tên khác) khi đặt tên Việt Nam Quang phục Hội vào năm 1912.

Tuy Quang phục Hội có một lịch sử đáng chú ý, nhưng điều ngạc nhiên là trước đây ít người nói tới. Những điều giới thiệu sau đây có thể tìm thấy ngay trong “Phan Bội Châu niên biểu” (hay “Tự phán”) chứ không phải tìm đâu xa xôi. Trước hết, Quang phục Hội không chỉ là hội đoàn theo nghĩa thông thường mà trên hết thực tế là một “chính phủ lâm thời” (lưu vong), có quy định cả quốc kỳ, quân đội (Việt Nam Quang phục Quân), quân kỳ, và phát hành cả giấy bạc (dưới dạng “quân dụng phiếu”) “in bằng điện, tinh xảo như giấy bạc Tàu”. Quang phục Hội cũng đã quy định lá quốc kỳ đầu tiên của Việt Nam. Theo lời kể lại của Phan Bội Châu, “một sự quái lại” là trước đó “nước ta chỉ có cờ hoàng đế mà không có quốc kỳ”. Bởi vậy, Quang phục Hội mới “chế định cờ ngũ tinh” (năm ngôi sao) làm lá quốc kỳ đầu tiên. Năm ngôi sao trên lá cờ này có hình liên kết với nhau (ngũ tinh liên châu), tiêu biểu cho ba kỳ của Việt Nam, cộng thêm Lào và Cămpuchia (!). Quốc kỳ Quang phục Hội có nền vàng, tượng trưng cho nhân chủng da vàng của người Việt, màu hồng của năm ngôi sao biểu tượng cho vị trí phương Nam của nước Việt (“Nam phương thuộc hỏa, hỏa sắc hồng”). Hình dạng quân kỳ cũng giống như quốc kỳ, điểm khác nhau là thay vì hồng tinh (sao hồng), quân kỳ dùng bạch tinh (sao trắng), nhằm “tỏ rõ mục đích” của Việt Nam Quang phục Quân là “cốt đánh đổ chính phủ người da trắng”.

Tôn chỉ “độc nhất” của Quang phục Hội là “khôi phục nền độc lập của Việt Nam” và thành lập một nước “cộng hòa dân quốc”. Nói một cách khác, với sự thành lập của Quang phục Hội, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chủ nghĩa quân chủ đã bị phủ nhận và chủ nghĩa dân chủ “được xác định”. Dĩ nhiên Phan Bội Châu đã đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển hướng đường lối của Quang phục Hội [7]. Cho dù việc thay đổi “ngọn cờ quân chủ” (mà Phan Bội Châu đã đề cao để chống Pháp lúc xuất dương) thành lá cờ dân chủ phần nhiều là do ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, nhưng trong bối cảnh lịch sử nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, sự kiện này có ý nghĩa như một khúc nhạc dạo đầu báo hiệu sự cáo chung của chế độ quân chủ ở nước ta mà trên thực tế sẽ xảy ra trong quá trình ba, bốn mươi năm sau đó.

“Bạo động kịch liệt” và bế tắc

Khác hẳn với chủ trương ôn hòa của Phan Chu Trinh là duy tân để tự cường rồi mới dành độc lập; Phan Bội Châu chủ trương bạo động, một phần vì bản tính (“sinh bình tôi vốn ôm chủ nghĩa cấp khích” [8]) và một phần do áp lực của “bọn anh em trong phái cấp khích ở Nghệ Tĩnh… hối thúc tôi trong việc quân giới” [9].

Lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp bằng phương tiện võ trang (quân sự), đối với Phan, là phương cách duy nhất để lấy lại độc lập cho Việt Nam. Tuy nhiên, Phan cho rằng người Việt tự mình không địch nổi người Pháp, do đó phải cậy vào một cường quốc khác. Sở dĩ Phan và các đồng chí trong Duy Tân Hội chọn Nhật Bản để cầu viện vì Nhật là nước “đồng văn đồng chủng” mà lại vừa mới thắng Nga. Sau khi bị nhà đương cuộc Nhật trục xuất khỏi Nhật, Phan chuyển hướng, muốn liên kết với các nước “đồng bệnh” – trước hết là Trung Quốc – chống lại “cường quyền”. Tuy nhiên, suốt đời Phan không rời chủ nghĩa Liên Á (Asianism), tin rằng nếu không có sự giúp đỡ của các nước “đồng văn đồng chủng” như Trung Quốc, Nhật Bản… thì Việt Nam không thể nào lấy lại độc lập.

Nhận thức về quan hệ quốc tế của Phan vừa lỗi thời vừa rất chủ quan. Có thể nói một trong những lý do khiến Phan thất bại là vì mặc dầu đứng trong tư thế người lãnh đạo một phong trào chống Pháp, Phan không bao giờ có ý định tìm hiểu về người Pháp và nước Pháp. Theo phương châm ngày xưa “kẻ thù của địch là bạn ta”, Phan ngỏ ý cầu viện một cách bừa bãi với các nước mà Phan coi là có quyền lợi xung đột với Pháp lúc bấy giờ: Đức, Nga, và đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. Phan cả tin và chủ quan về những “nước bạn”, rồi với trạng thái tâm lý được diễn tả và châm biếm qua câu ca dao “Thương thì thương cả đường đi, ghét thì ghét cả tông chi họ hàng” (hoặc “Thương thì trái ấu cũng tròn, không thương trái bồ hòn cũng méo”), Phan tưởng rằng những “nước bạn” sẽ là những đồng minh muôn thuở, bất luận trong tình huống nào và vô hình trung cho rằng “Pháp là nước duy nhất có ý đồ xâm chiếm Việt Nam”. Vì Phan hoạt động trong giai đoạn mà ý thức hệ (hệ tư tưởng) chính trị chưa chia phối hàng ngũ người Việt trong nước cũng như hải ngoại, nên mặc dầu những thuật ngữ Phan dùng có thể khác những thuật ngữ của các thế hệ sau, nhưng phải nói trạng thái tâm lý nói trên vẫn thể hiện đậm nét trong quan niệm đối ngoại của Việt Nam ít ra mãi cho đến gần đây.

Chủ trương bạo động của Phan Bội Châu tùy thời điểm có mức độ khác nhau. Chẳng hạn, sau khi sang Nhật để xin viện trợ quân sự chống lại Pháp, Phan gặp Lương Khải Siêu, và sau khi nghe lời khuyên chí tình của họ Lương, Phan mới chuyển hướng sang việc gửi thanh niên sang Nhật du học. Qua bút đàm, Lương khuyên Phan: “Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập… Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài”. Mặc dầu thời kỳ Đông Du là khoảng thời gian mà chính Phan xem là “đắc ý” nhất trong đời, Phan vẫn còn vương vấn với khuynh hướng “bạo động” nên cũng không hết lòng tin tưởng vào vai trò của giáo dục. Phan mượn câu nói của Mã-Chí-Nê (Mazzini) làm chủ thuyết của mình: “Giáo dục dữ bạo động đồng thời tịnh hành” (Giáo dục và bạo động cùng tiến hành song song) [10]. Sau khi bị trục xuất khỏi Nhật (1909), bôn ba sang Xiêm, rồi cuối cùng trở về Quảng Đông thành lập Quang phục Hội (1912), Phan chủ trương “bạo động kịch liệt” nhằm “tìm cái sống trong muôn vạn cái chết” và những mong bạo động sẽ là “môi giới để cải lương giáo dục”!

Trái hẳn với Phan Bội Châu, châm ngôn của Phan Chu Trinh là “Vọng ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử” (Không nên cậy vào nước ngoài, cậy vào nước ngoài là ngu; không nên bạo động, bạo động là chết) và “ỷ Pháp cầu tiến bộ” mà trên thực tế có nghĩa là phải tạm thời chấp nhận chính quyền thuộc địa nhằm mở mang dân trí và cải cách chế độ cai trị của người Pháp, rồi từng bước phục hồi nền độc lập quốc gia. Khi bị tù ở Côn Đảo, Phan Chu Trinh đã từng nói: “Chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có nhờ cậy sức nước ngoài chỉ diễn cái trò ‘đổi chủ làm đầy tớ lần thứ hai’, không ích gì… mình không tự lập, ai cũng là kẻ cừu của mình, Triều Tiên, Đài Loan là cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn người Pháp” [11].

Phan Chu Trinh là nhà sĩ phu đầu tiên hô hào dân quyền ở nước ta [12]. Ông chống bạo động, dấy phong trào duy tân “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh” và chủ trương “tự lực khai hóa” không phải vì ươn hèn sợ hãi, mà bở vì ông thấy dân trí nước ta còn quá thấp. Theo ông, trong tình trạng như vậy thì dầu có giành được độc lập “cũng không phải là điều hành phúc cho dân”. Ông là người quả cảm, có khí phách, không sợ hiềm nghi hay gièm pha, dám đưa ra một chủ thuyết khác hầu hết mọi người đương thời. Phan Tây Hồ là một nhà cách mạng theo đúng nghĩa của nó.

Vì Phan Bội Châu theo chủ thuyết bạo động nên không phải ngẫu nhiên mà phần lớn những sinh viên du học ở Nhật và Trung Quốc vào đầu thế kỷ (dưới ảnh hưởng của Phan) đã học những trường quân sự, và đại đa số những người này cuối cùng đã hy sinh trong những vụ bạo động, mưu toan ám sát người Pháp cùng những người Việt cộng tác với chính quyền thuộc địa, hay các binh biến lẻ tẻ. Than tiếc cho sự việc này, Phan Chu Trinh đã viết: “Phải chi dùng số người xuất dương đó phân tán trong nước, đem trí thức, trình độ cao đó khiến cho mười mấy triệu người trong nước cũng có trí thức cao lên để tranh dành với Pháp” [13]. Bởi vậy, trong lời tựa của tập tự truyện “Phan Bội Châu niên biểu” mà tác giả đã viết với sự cân nhắc và phản tỉnh sâu lắng trong tuổi già, Phan Bội Châu ghi: “Chân trời góc bể gần ba mươi năm, vì liên lụy với tôi mà kẻ chết người tù, họa tràn quận quốc, độc trôi đồng bào… Anh em chúng ta nếu xem cái gương thất bại trước mà gấp lo tìm cách cải lương, sẽ mở ra một lối thành công sau…”. Phan Bội Châu khuyên đồng bào nên xem cuộc đời họat động của mình như một “chiếc xe đã bị lật đằng trước nhằm cảnh giác” (tiền xa phúc, hậu xa giới) mà mở lối thành công. Những lời này của Phan Bội Châu nên được xem như là những lời phản tính và nhắn nhủ chân thành của một nhà đại hào kiệt “có lòng thương nước” nhưng vô tình đã “không biết cái đạo thương nước”. Bình luận về Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã có những nhận xét sắc bén và thẳng thừng như sau: “Ông Phan Bội Châu tư chất thông minh, chí khí rất to lớn, sớm có quan niệm quốc gia. Trong thời đại nước Việt Nam chuộng khoa cử, ông cũng là người có học thức lầm lạc (mậu vọng) những dụng công rất nhiều, lòng tự tin mãnh liệt, cho nên những ưu và khuyết điểm cùng tập quán của dân tộc Việt Nam đều ăn sâu vào não tủy ông ta. Cho nên có thể cho ông là người xứng đáng đại biểu cho tập tánh của người Việt Nam.” Hoặc giả: “Ông là người lịch sử dân tộc trên hai ngàn năm, nào ưu điểm, nhược điểm đã hun đúc thành con người đó” [14].

Nền độc lập mà Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cùng các sĩ phu khác vào đầu thế kỷ hằng mơ ước ngày nay đã về trong tay người Việt. Nhưng vấn đề dân chủ, dân trí, dân sinh mà Phan Chu Trinh hằng nhắc nhở từ đầu thế kỷ vẫn là những vấn đề hiện thực nóng bỏng của đất nước sau chiến tranh. Thực tâm giải quyết những vấn đề này sẽ mang lại sinh khí cho dân tộc, đất nước nhờ đó sẽ được hồi sinh.

Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai nhân vật kiệt hiệt của đất nước, nhưng chỗ đứng của họ trong cuộc hành trình dân tộc trong 100 năm qua lại khác nhau như âm với dương. Mặc dầu chúng ta cần đánh giá vai trò thức tỉnh hồn nước và ý thức quốc gia quốc dân của Phan Bội Châu, nhưng đồng thời cần nhận thức rằng Sào Nam tiên sinh không phải là người đã đề xướng dân chủ, dân trí và dân sinh. Lmà việc đó đã có tiếng nói hùng hồn của Phan Chu Trinh. Bởi vậy, khi đọc lại những lời Tây Hồ viết vào đầu thế kỷ, ta vẫn nghe sang sảng tựa hồ như tiên sinh đang đăng đàn diễn thuyết đâu đây.

Tháng 8-1999

Tham khảo:

[1] “Tự phán” (TP, tức Phan Bội Châu niên biểu) (Huế: Nhà xuất bản Anh Minh, 1956), trang 27. Khi trích dẫn từ sách này, chúng tôi đã tham khảo nguyên văn chữ Hán và đôi khi đã sửa đổi vài chỗ trong bản dịch quốc ngữ cho sát với nguyên văn và nghe thuận tai hơn.
[2] Xem Nguyễn Q. Thắng, “Huỳnh Thúc Kháng – Con người và thơ văn” (Sàigòn: Phủ Quốc-Vụ-Khanh đặc trách văn hóa, 1972), trang 278
[3] Đặng Thai Mai, “Văn thơ Phan Bội Châu” (Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học, 1967), trang 105.
[4] Xem “Việt Nam quốc sử khảo”, trong “Những tác phẩm của Phan Bội Châu” (Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1982), trang 223-237.
[5] Như trên, trang 217
[6] Xem Kawamoto Kunie, “Etsunanjin no ketsuda” (Quyết đoán của người Việt), trong cuốn “Kanji minzoku ketsudan” (Quyết đoán của những dân tộc dùng chữ Hán) do Hashimoto Mantaro, Suzuki Takao và Yamada Hisamu biên soạn. (Tokyo: Taishukan Shoten, 1987), trang 481.
[7] Về các tư liệu trích trong phần này, xem “Tự phán”, trang 146-154.
[8] “Tự phán”, trang 150.
[9] NTT, trang 51
[10] “Tự phán”, trang 53
[11] Minh-Viên Huỳnh Thúc Kháng, “Thi tù tùng thoại” (Sàigòn: Nam Cường, 1951), trang 105.
[12] Xem Nguyễn Văn Xuân, “Phong trào Duy Tân” (Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1995), trang 107.
[13] Phan Chu Trinh, “Pháp Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam” (Nước Việt Nam mới sau khi liên hiệp với Pháp), bản dịch của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Văn Tường, trong Nguyễn Q. Thắng, “Phan Chu Trinh – Cuộc đời và tác phẩm” (TP Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 1987), trang 252.
[14] Như trên, trang 251-254.
Nguồn: chungta.com

Phan Châu Trinh – cuộc đời và sự nghiệp
Đinh Xuân Lâm
Tạp chí Khoa học xã hội
15/03/2007

Phan chu TrinhPhan Châu Trinh là một nhân vật lịch sử tiêu biểu trong phong trào cách mạng Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX. Từ trước đến nay đã có nhiều người trong nước và nước ngoài nghiên cứu về Cụ. Trong dịp dâng hương tưởng niệm 80 năm ngày mất của cụ (1926 -2006), thiết tưởng việc ôn lại cuộc đời và sự nghiệp Phan Châu Trinh để rút ra những bài học cho hôm nay cũng là một việc làm cần thiết và bổ ích.

Phan Châu Trinh sinh năm 1872 tại làng Tây Lộc, huyện miền núi Tiên Phước (nay là xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Mam), khi thực dân Pháp vừa nuốt gọn Nam kỳ (1867) đang ráo riết xúc tiến việc đánh chiếm toàn bộ Việt Nam. Hai hiệp ước Quý Mùi (25/8/1883) và Giáp Thân (6/6/1884) đánh dấu sự đầu hàng giai cấp phong kiến Việt Nam trước chủ nghĩa đế quốc Pháp. Nhưng những người yêu nước Việt Nam đâu chịu hạ vũ khí. Cao trào đấu tranh vũ trang Cần Vương đã bùng nổ mạnh mẽ ngay sau đó rồi kéo dài trong nhiều năm (1885 – 1896), với sự tham gia quên mình của đông đảo nhân dân cả nước. Quê hương Quảng Nam của Phan Châu Trinh là một địa phương sớm hưởng ứng phong trào và thân sinh của cụ là Phan Văn Bình, một võ quan triều đình cũng có tham gia, nhưng cũng hai năm sau thì Cụ mất không rõ vì sao. Đã vậy Phong trào trong tỉnh lúc này cũng đã sớm lâm vào giai đoạn thoái trào, cuộc khởi nghĩa Nguyễn Duy Hiệu chỉ sau hai năm hoạt động đã tan rã ( 1885 – 1887). Hoàn cảnh đó làm cho Phan Châu Trinh tuy lúc đó mới 15 tuổi không khỏi suy nghĩ về hiệu quả của con đường vũ trang bạo động. Rồi phong trào Cần Vương trong cả nước sau đó với hai đỉnh cao là Ba Đình – Hùng Lĩnh (Thanh Hóa) và Hương Sơn – Hương Khê (Hà Tĩnh) cũng lần lượt thất bại trước sự đàn áp man rợ của thực dân Pháp có tay sai phong bến tiếp sức. Tình hình đó càng thêm củng cố nhận thức của Phan Châu Trinh về sự bất lực của con đường bạo động Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX với một tương quan lực lượng địch ta hoàn toàn bất lợi cho ta. Trong thực tế, với sự thất bại của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX thì con đường vũ trang bạo động theo lối cũ là hoàn toàn ảo tưởng. Chuyển sang năm 1897, tư bản Pháp từ nay đã có điều kiện đầy mạnh khai thác Việt Nam trên quy mô lớn, làm cho cơ cấu kinh tế nước ta có những biến chuyển, tuy bước đầu nhưng rất cơ bản, vì sẽ quyết định phương hướng phát triển lâu dài của Việt Nam trong khuôn khổ một nước thuộc địa. Đồng thời xã hội Việt Nam cũng bất đầu phân hóa. Những mầm mống kinh tế và cơ sở xã hội mới của Quảng Nam, do những điều kiện riêng so với một số địa phương khác trong nước lại có phần xuất hiện sớm và đạt trình độ phát triển khá hơn. Hoàn cảnh đó giúp cho Phan Châu Trinh, trên cơ sở một tinh thần yêu nước thực tế, với khả năng tư duy của một trí thức cấp tiến, đã nhận rõ hơn đâu là nguồn gốc sức mạnh của kẻ thù, cũng như đâu là nguyên nhân sự thảm bại của dân tộc, từ đó suy nghĩ và chọn lựa con đường cứu nước thích hợp.

Lúc này thời cuộc Đông Nam Á cũng có nhiều biến động quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc tới tình hình Việt Nam. Từ cuối thế kỷ XIX, Nhật Bản – một quốc gia phong kiến Châu Á – mới phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa từ sau cuộc Minh Trị duy tân năm 1868, cũng như sự hình thành nền kinh tế tư bản dân tộc Trung Quốc với sự trỗi dậy của tầng lớp công thương nghiệp lừ cuối thế kỷ XIX tạo điều kiện cho phong trào duy tân Trung Quốc phát triển, tình hình đó đã tác động sâu sắc đến các sĩ phu yêu nước Việt Nam sau phong trào Cần Vương thất bại đang tìm một con đường cứu nước mới. Tại Quảng Nam lúc đó, thông qua các cảng Đà Nẵng, Hội An, các tân thư, tân báo Trung Quốc giới thiệu tư tướng cách mạng tư sản phương Tây được đưa vào ngày càng nhiều, văn thân sĩ phu trong tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi để làm quen với tư tưởng phương Tây, tất nhiên mức độ tác động của các sách báo đó đến các vị không đồng đều, mà có sự phân hóa đậm nhạt, sâu rộng tùy thuộc vào điều kiện chủ quan của từng người. Đó cũng là tình hình chung của cả nước dẫn tới sự phân hóa thành hai xu hướng bạo động và cải cách trong phong trào cách mạng Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX Trong sự phân hóa đó, Phan Châu Trinh đứng về phía cải cách, và là người có ý thức đầy đủ nhất về yêu cầu bức thiết cũng như mục tiêu cuối cùng của con đường cải cách. Chỉ gia nhập quan trường với một chức vụ nhỏ bé Thừa biện bộ Lễ trong một thời kỳ ngắn ngủi, nhưng thực tế quan trường thối nát cực độ, trở thành chỗ dựa vững chắc của thực dân Pháp trong thủ đoạn thống trị và bóc lột nhân dân, đã làm Cụ thất vọng. Cũng chính thời gian ở Huế, Phan Châu Trinh đã có dịp giao du với nhiều người yêu nước như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền… được đọc những điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ và các tân thư, tân báo từ Trung Quốc, Nhật Bản sang. Cuối cùng, Cụ đã dứt khoát từ quan về quê cùng các bạn đồng tâm đồng chí (như Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng) đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền vận động cải cách trong giới thân sĩ và nhân dân trong tỉnh. Sau chuyến Nam du khảo sát tình hình, khi trở về Cụ đã cùng Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng nhất trí với nhau là trước mắt cần phát động một cuộc duy tân rộng khắp trong nhân dân, mong đạt kết quả về lâu dài, không thể nôn nóng bạo động ngay. Chính vì nhận thức như vậy mà đối với chủ trương Đông Du của Phan Bội Châu, Cụ chỉ tán thành việc “viết sách… đề xướng dân quyền “, theo Cụ một khi “dân đã giác ngộ được quyền lợi của mình bấy giờ mới có thể dần dần mưu tính việc khác” (Phan Bội Châu, 1 957, tr.72). Và năm 1906, khi gặp Phan Bội Châu trên đất Nhật, Cụ đã kịch liệt công kích chủ trương bạo động cũng như chủ trương ngoại viện bằng một câu thơ đanh thép:

Bất bạo động, bạo động tắc tử
Bái vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu.

(Không bạo động, bạo động ắt chết
Không hướng bên ngoài, hướng bên ngoài là ngu).

“Vọng ngoại” nói đây là theo lối cũ, chủ yếu là cầu viện quân sự đưa quân nước ngoài vào giúp, một việc làm vô cùng nguy hiểm.

Còn thái độ của Cụ đối với phong kiến triều Nguyễn lúc này cũng quyết liệt hơn, cho rằng “không đập tan được nền quân chủ thì dù có khôi phục được nước cũng không phải là hạnh phúc của dân ” (Phan Bội Châu, 1957, tr.70).

Sau khi từ Nhật về nước, với ý định có sẵn, Cụ hăng hái đẩy mạnh công cuộc khai hóa đồng bào. Muốn được như vậy, Cụ chủ trương trước hết dựa vào Pháp để có thể tiến hành những cải cách cần thiết, đánh đổ quân chủ, xây dựng nhân quyền. Cụ gửi thư cho Toàn quyền Đông Dương Paul Beau bày tỏ tình trạng nước Việt Nam, yêu cầu Chính phủ Pháp cải cách chính trị và thành thực khai hóa cho nhân dân Việt Nam. Rõ ràng đó là một ảo tưởng chính trị, đế quốc Pháp cũng như bất cứ đế quốc nào khác không bao giờ tự nguyện làm cho dân tộc thuộc địa lớn mạnh dần lên để tiến tới tự giải phóng. Thế nhưng cũng hoàn toàn không thể căn cứ vào hành động đó để khẳng định Phan Châu Trinh trước sau cự tuyệt bạo động. Đọc thư văn của Cụ, thấy rõ Cụ không tỏ ý gì muốn tuyệt đối cấm bạo động cả, vấn đề đối với Cụ chỉ là bạo động khi có điều kiện, khi đã đủ sức, không bạo động non. Trong bức thư gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18/2/1922, cụm từ “vỗ tay đánh bộp một cái” thể hiện rõ tư tưởng đó.

Cuộc vận động đã thất bại, nhưng nhờ đáp ứng được một yêu cầu bức thiết của quần chúng và của thời đại, phong trào cách mạng nhanh chóng lan rộng trong tỉnh, các nông hội, hội buôn, xướng dệt, trường học theo lối mới ra đời ngày càng nhiều, đồng bào đua nhau cắt tóc ngắn, mặc áo ngấn, bỏ rượu chè, bài trừ hủ tục, dị đoan, cổ động dùng hàng nội hóa… Tất cả cũng mới chỉ là bắt đầu, nhưng đã biểu hiện một tinh thần mới, khẳng định một ý chí mới.

Thông qua con đường tuyên truyền phổ biến văn thơ yêu nước kêu gọi đoàn kết, giáo dục truyền thống dân tộc, cổ động thực hiện cải cách, các tư tưởng đổi mới ngày càng đi sâu vào quần chúng. Quần chúng ở đây chủ yếu lại là nông dân lâu nay chất chứa hờn căm vì sưu cao, thuế nặng, phu phen tạp dịch, vốn quen với đấu tranh bạo động truyền thống, nên tư tưởng mới đã tác động với một sức mạnh phi thường, lôi cuốn họ lên đường đấu tranh. Trên đà đó, cuộc vận động cải cách ở Quảng Nam và dọc theo các tỉnh miền Trung chuyển hướng, tiến nhanh tới những cuộc biểu tình rộng lớn chống thuế trong năm 1908, huy động tới hàng vạn người lên đường đấu tranh trực diện chống lại thực dân Pháp và phong kiến tay sai.

Qua sự phát triển của phong trào, thấy rõ là trong hoàn cảnh Việt Nam lúc đó cùng lúc có hai xu hướng bạo động và cải lương song song tồn tại và phát triển, có tác dụng nương tựa và hỗ trợ cho nhau, là một điều hợp lý và có lợi. Hai xu hường này không đối lập nhau, mà suy cho đến cùng thì cải cách là chuẩn bị tích cực cho bạo động. Vì vậy, đến khi thẳng tay đàn áp phong trào, thực dân Pháp đâu có phân biệt bạo động với cải lương, bạo động hay cải lương với chúng đều nguy hiểm. Nhân dịp này, chúng bắt giam Phan Châu Trinh, rồi kết án đày ra Côn Đảo. Mặc dù thời gian vụ “xin xâu” xảy ra ở Quảng Nam (tháng 3/1908) Cụ đang ở ngoài Hà Nội.

Nhờ có sự vận động của Liên minh Nhân quyền tại Pháp, Phan Châu Trinh sớm được “ân xá”, tháng 3/1911 Cụ được sang Pháp cư trú. Bằng quyết định này, nhà cầm quyền Pháp muốn cách ly Cụ với nhân dân Việt Nam yêu nước vừa mới trải qua bạo động thất bại càng thấm thía hơn sự cần thiết của một sự chuẩn bị lâu dài thông qua con đường cải cách về cả hai mặt tinh thần và vật chất. Còn đối với Phan Châu Trinh, đây là một cơ hội tết để thực hiện mong muốn vận động cải cách có kết quả ngay tại nước Pháp là nơi Cụ cho là “gốc của nhân quyền”. Qua các nguồn tư liệu, thư từ, công văn trao đổi… sưu tầm được tại Pháp và cả ở trong nước, chúng ta thấy trong thời gian 1911 – 1914 Cụ hoạt động rất hăng hái, mở rộng giao thiệp với Đảng Xã hội Pháp, với Liên minh Nhân quyền, với các giới làm báo, viết văn gửi điều trần… Cũng trong thời gian này, Cụ giao thiệp với Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc sau này) đang ở London (Anh).

Bị nhà cầm quyền Pháp vu cáo tội thông đồng với Đức để bắt giam trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, mãi đến tháng 8/1915 chúng mới thả Cụ ra vì không tìm thấy cớ để buộc tội. Trong hoàn cảnh chiến tranh, sinh hoạt đất đỏ, sau khi ra tù Cụ phải lao động cực nhọc để kiếm sống, nhưng trong thời gian từ 1915 – 1919 có một sự kiện rất đáng được nêu lên là sự gặp gỡ tại Paris giữa Cụ với Nguyễn Tất Thành từ Anh sang vào giữa năm 1917, mở đầu cho một thời kỳ cùng chung sống và phối hợp hành động có hiệu quả và có lợi cho cả đôi bên. Ở đây vấn đề đánh giá mức độ ảnh hưởng qua lại giữa hai người trong thời kỳ này. Có người đã căn cứ vào bản “Yêu sách của nhân dân Việt Nam” năm 1919 “chưa đòi hỏi những thay đổi cách mạng cho nước Việt Nam” với nội dung khá gần 14 điểm của Tổng thống Wilson, mà trong một chừng mực nào đó như là sự vận dụng cụ thể vào hoàn cảnh Việt Nam (Charles Fourniau, 1970, tr. 24) để khẳng định rằng, trong giai đoạn 1917 – 1919 Nguyễn Tất Thành có chịu ảnh hưởng của Phan Châu Trinh. Điều đó cũng dễ hiểu. Đối với Nguyễn Ái Quốc đây còn là bước đầu dò đẫm tìm phương thức hành động, tìm chiến thuật thích hợp của một người còn đang xác định phương hướng hành động nên tranh thủ mọi cơ hội và mọi phương sách để đấu tranh có lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc. Ra đi tìm con đường cứu nước mới trên cơ sở một tinh thần yêu nước mãnh liệt sau khi đã nhận rõ sự phá sản của con đường cứu nước cũ, lại hoạt động trong môi trường nước Pháp dân chủ, việc lúc đầu Nguyễn Ái Quốc chịu ảnh hưởng của Phan Châu Trinh là một người có tư tường dân chủ rõ rệt là một thực tế lịch sử không thể phủ nhận. Một nhà nghiên cứu nước ngoài khi đề cập tới vấn đề này cũng ghi nhận: “Trước 1920, Hồ Chí Minh là người khâm phục Phan Châu Trinh. Ông ta cũng vững tin vào sự ưu việt của mô hình văn minh đặt trên nền tảng khoa học – dân chủ, cũng giống như nội dung các yêu sách nổi tiếng của ông đã cùng nhóm những người Việt Nam yêu nước gởi tới Hòa hội 1919” (Đaniel Hémery, 1982). Nhưng vấn đề là chính trong quá trình hoạt động của phong trào yêu nước của đồng bào Việt Nam trên đất Pháp, đồng thời thâm nhập phong trào đấu tranh phản chiến và phong trào công nhân đang dâng cao ở Pháp sau chiến tranh, tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng biến đổi, sự phân hóa tư tường giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc ngày càng rõ rệt. Báo cáo mật thám Pháp chuyên theo dõi ngôi nhà số 6 Villa de Gôbơlanh đã ghi nhận nhiều cuộc tranh luận gay gắt giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc trong năm 1919 về thái độ đối với thực dân Pháp, về đường lối hành động cần có. Thế nhưng vấn đề quan trọng ở đây là tìm hiểu thái độ của Phan Châu Trinh trước sự chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Qua các tài liệu trên, chúng ta thấy đã có tranh luận ý kiến giữa hai người. Nhưng đứng trước thực tế “tại Paris, Nguyễn Ái Quốc sớm trở thành trung tâm và đầu não của nhóm người Việt Nam nhỏ bé cư trú ở Pháp ” (Charles Foumiau, 1970, tr. 21), đến ngay cả mật thám Pháp cũng xác nhận rằng “linh hồn của phong trào người Việt ở Paris là Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Phan Quang, Về một số tư liệu hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp 1917 – 1923), Phan Châu Trinh tuy vẫn kiên trì con đường đi của mình, nhưng cũng đã biểu lộ sâu sắc lòng tin cậy, sự cảm phục của mình vào tài trí và khả năng của Nguyễn Ái Quốc là một thanh niên vào hàng con cháu mình. Cũng trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18/2/1922 Cụ viết: “Bây giờ tôi tựa như chim lồng cá chậu. Vả lại, cây già thì gió dễ lay, người già trí lẫn, cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia vong, mà hơi tàn cũng phải gào cho hả dạ, may ra có tỉnh giấc hôn mê. Còn anh như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông…” (Thu Trang, 1983, tr. 40).

Thật là một ý kiến thiết tha và chân tình, một khẳng định phương pháp mình đã lựa chọn là đúng và kiên quyết đi theo, sự khẳng định ở đây không phải là cố chấp, bảo thủ, mà vì chủ quan nhận thấy phương pháp đó vẫn còn có tác dụng cho sự nghiệp cứu nước, mặt khác cũng thành thực và công khai thừa nhận lịch sử đã sang trang và chuyển sang tay người khác có đường lối mới thích hợp hơn.

Trong những năm tháng cuối cùng trên đất Pháp, Phan Châu Trinh vẫn không ngừng hoạt động khi có cơ hội. Tháng 7/1922, khi bù nhìn Khải Định sang Pháp, với nhiều âm mưu ám muội bên trong, Cụ công khai vạch 7 tội đáng chém của Khải Định với dân, với nước.

Tiếp đó, năm 1924, sau khi ám sát hụt Toàn quyền Martial Merlin của nhóm Tâm Tâm xã ở Sa Điện (Quảng Châu, Trung Quốc), vấn đề Đông Dương được đưa ra Nghị viện Pháp, đế quốc Pháp nhận thấy cần phải nới tay và xoa dịu nhân dân thuộc địa. Kết hợp với đó, lúc này phong trào cách mạng Việt Nam cũng đang chuyển theo hướng mới với sự trưởng thành của giai cấp công nhân sau chiến tranh. Nhân trước đó Phan Châu Trinh cũng đã có đơn xin, nhà cầm quyền Pháp lúc này đã cho phép Cụ về nước, sau 15 năm lưu vong trên đất khách quê người (tháng 5/1925).

Sau hai lần tù tội trong nước và ở bên Pháp, thêm vào đó nhiều năm lao động kiếm sống cực nhọc trên đất khách quê người, lại bế tắc trong ý đồ chính trị, đau thương vì tình cảm gia đình, sức khỏe Cụ kém sút nhiều. Nhưng tình cảm gắn bó với đồng bào, sự giúp đỡ ân cần của bạn bè đồng chí đã động viên cổ vũ Cụ. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của Cụ. Trước đó trong bức thư gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18/2/1922, Cụ có hứa hẹn: “… Rồi may ra có cơ hội tôi lại về (nước). Một khi mà tôi đặt chân lên quê hương xứ sở, tôi nguyện đem hết nghị lực bình sanh mà thức tỉnh dân khí ba kỳ đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền áp chế…” (Thu Trang, 1983, tr. 40). Nói chuyện ở Sài Gòn đả phá chế độ quân chủ và đề cao dân quyền, đánh điện cho Toàn quyền Alexandre Varenne yêu cầu ân xá cho Phan Bội Châu, đánh điện cho Khâm sứ Trung kỳ Pierre Pasquyer yêu cầu đình chỉ việc cử người kế vị Khải Định mới chết để thành lập Hội đồng nghiên cứu những cải cách cần thiết… những hoạt động hối hả đó của nhà cách mạng lão thành như muốn chạy đua với thời gian thật đáng cảm động. Sau chiến tranh, phong trào cách mạng Việt Nam đang chuyển mạnh sang một thời kỳ mới trong đó giai cấp công nhân đang vươn lên nấm quyền lãnh đạo cách mạng. Mặc dù vậy nhân dân trong cả nước vẫn dành cho Phan Châu Trinh những tình cảm trân trọng, đánh giá cao lòng yêu nước của Cụ. Khi Cụ mất (24/3/1926 tại Sài Gòn), đám tang Cụ có hàng chục vạn người tham gia và tiếp theo là các cuộc truy điệu lôi cuốn hàng vạn người ở khắp các tỉnh ba kỳ Trung – Nam – Bắc và cả Việt kiều ở Thái Lan, trong thực tế đã trở thành cuộc biểu dương lòng ái quốc vĩ đại của nhân dân muốn giải phóng dân tộc. Ý nghĩa to lớn của Lễ tang Phan Châu Trinh đã được khẳng định trong đôi đối viếng của anh công nhân Trần Quang Tặng (tức Khổng) làm công cho hãng tàu Bạch Thái Bưởi (Nam Định):

Truy điệu Tây Hồ nhật

Hoán cải quốc dân hồn.

(Ngày lễ truy điệu Cụ Tây Hồ

Làm cải đổi hồn dân cả nước).

(Thép Mới)

Nguyễn Ái Quốc cũng đánh giá cao: “năm 1926 có một sự thức tỉnh trong toàn quốc tiếp theo sau cái chết của một nhà quốc gia chủ nghĩa già Phan Châu Trinh” (Hồ Chí Minh, 1983, tập 3, tr. 20).

Thực vậy, lễ tang nhà ái quốc Phan Châu Trinh và các cuộc truy điệu cảm động, các cuộc bãi khóa sôi động sau đó đã thúc đẩy cả một thế hệ mới lên đường cách mạng. Tổng kết cuộc đời hoạt động yêu nước cách mạng của Phan Châu Trinh, có thể khẳng định rằng đặt trong những điều kiện lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, xu hướng chính trị và những hoạt động của Cụ đã có tác dụng tích cực đến phong trào cách mạng thời đó, do chỗ yêu cầu dân chủ, khát vọng dân quyền Cụ đề xướng là phù hợp với thời đại, phù hợp với bước tiến của cách mạng Việt Nam đang chuyển từ phạm trù cũ phong kiến sang phạm trù mới có tính chất tư sản. Dưới ảnh hướng của xu hướng chính trị và những hoạt động sôi nổi của Cụ, một cuộc vận động cải cách dân chủ rộng lớn đã được phát động tại miền Trung và nhanh chóng lan rộng ra cả nước, tấn công khá quyết liệt vào hệ tư tướng phong kiến, thực hiện cải cách phong tục. đẩy mạnh phát triển công thương nghiệp… Không còn nghi ngờ gì nữa, Phan Châu Trinh là người đầu tiên có tư tưởng dân chủ ở Việt Nam.

Phan Châu Trinh đã xuất hiện trên vũ đài chính trị nước ta đầu thế kỷ XX với tư cách một nhà yêu nước khảng khái, trung thực, bất khuất trước cường quyền, một sĩ phu tiến bộ suốt đời hăng hái và kiên trì phấn đấu cho việc phát huy dân chủ, dân quyền ở nước ta. Với tư cách đó, Phan Châu Trinh thật xứng đáng chiếm một vị trí cao trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Hơn bao giờ hết, trong công cuộc đổi mới hiện nay của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, những bài học về dân chủ, dân quyền từ thời gian Phan Châu Trinh vẫn còn giá trị, đã và đang có ý nghĩa to lớn.
Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội

Gửi bình luận »

Không có bình luận

RSS feed for comments on this post. TrackBack URI

Bình luận về bài viết này